Tiếng Việt
English
Tiếng Việt
Các bài viết (355)
Đôi nét về tác giả
Danh sách tác giả
Dr. Hoang Phong
Mới nhất
A-Z
Z-A
Bài 43: Prajña hay năm thể dạng trí tuệ
29/07/2021
22:15
Sự suy tư về shunyata (sự trống không) là cách phát huy trí tuệ tốt nhất nhằm mang lại một sự thăng tiến tuần tự với các cấp bậc thâm nhập (penetration / quán thấy, thấu triệt) ngày càng cao hơn về hiện thực. Tuy nhiên cũng vẫn còn một phương pháp tu tập khác có thể mang lại cùng một sự thăng tiến như vậy về các thể dạng và chiều sâu của trí tuệ, đó là cách nhờ vào năm jñana tức là năm thể dạng hiểu biết gọi là năm hình thức trí tuệ.
Bài 42: Prajña paramita hay sự hiểu biết siêu việt về hiện thực
16/06/2021
19:31
Dù đã phát động các cố gắng như trên đây (trong việc luyện tập thiền định) thế nhưng chúng ta vẫn không phát huy được các cấp bậc dhyana thật cao, thì qua một vài cảm nhận nào đó về dhyana mà mình đã thực hiện được, chúng ta cũng có thể phát huy prajña (prajña là tiếng Phạn, tiếng Pali là paññā, có nghĩa là Trí tuệ), là thể dạng paramita thứ sau (paramîta dịch âm là ba-la-mật-đa trong các kinh sách Hán ngữ, Chữ này có nghĩa là sự Hoàn hảo hay Toàn thiện, nghĩa từ chương là "vượt sang bờ bên kia"), và cũng là thể dạng paramita cao nhất. Hậu ngữ jña trong chữ prajña có nghĩa là sự hiểu biết và tiền ngữ pra thì đơn giản chỉ có nghĩa là sâu sắc (intense), do đó có thể hiểu chữ prajña / trí tuệ là một sự hiểu biết vượt bực (extreme / tối thượng), một sự hiểu biết siêu việt, điều đó cũng có nghĩa là sự hiểu biết về hiện thực, về shunyata (sự trống không, còn gọi là Tánh không trong kinh sách Hán ngữ).
Bài 41: Các cửa ngõ mở vào sự giải thoát
04/06/2021
20:02
Người ta có thể phân biệt samadhi siêu nhiên (samadhi là tiếng Pali và tiếng Phạn, kinh sách tiếng Hán gọi là "định", là các phép tập trung tâm thức thật cao, tạo ra cho người hành thiền các thể dạng tâm thần vượt bực gọi là dhyana, kinh sách Hán ngữ gọi là "thiền") theo nhiều thể loại tùy thuộc vào các khía cạnh khác nhau của hiện thực mà người hành thiền hướng vào đó trong khi suy nghiệm (suy tư). Trong số các samadhi đó có ba thứ chủ yếu và tiêu biểu nhất được xếp vào một danh sách chung mang tên là "các cửa ngõ mở vào sự giải thoát", tiếng Pali và tiếng Phạn là "vimocaka mukha" (vimocaka có nghĩa là "sự giải thoát", mukha là "cửa ngõ" và cũng có nghĩa là "mở vào" hay "đưa vào". Ba samadhi hay ba cửa ngõ này sẽ được nhà sư Sangharakshita lần lượt giải thích dưới đây).
Bài 40: Bốn Dhyana Phi Hình Tướng
18/05/2021
19:38
Bốn dhyana trong thế giới arupaloka (tiền ngữ "a" nói lên một sự phủ nhận, rupa có nghĩa là hình tướng, loka là cõi, lãnh vực hay thế giới, tóm lại có thể hiểu chữ arupaloka là thế giới phi hình tướng, xin nhắc lại thế giới hình tướng / rupaloka đã được nói đến trong bài 39) là các dhyana (các thể dạng thiền định) thuộc vào cõi phi hình tướng. Rất ít những người hành thiền đạt được các thể dạng cảm nhận này (hầu hết những người hành thiền chỉ đạt được cấp bậc cảm nhận trong thế giới hình tướng, có nghĩa là những gì cụ thể liên quan đến con người của mình, chẳng hạn như sự tập trung tâm thần, niềm phúc hạnh hay sự thanh thản / upeksa.
Bài 39: Dhyana Thứ Hai
12/05/2021
14:32
Trong dhyana thứ hai, sự sinh hoạt duy lý của tâm thức (discursive mental activity) tan biến. Đó là một thể dạng [tâm thần] mà người ta không suy nghĩ gì nữa cả. Nhiều người cho rằng tình trạng đó quả đáng kinh sợ, tương tự như không còn một tư duy nào nữa, không còn hiện hữu nữa. Dầu sao cũng nên hiểu rằng người ta có thể hoàn toàn giữ được sự tỉnh giác, chú tâm và ý thức, thế nhưng hoàn toàn không có một sự sinh hoạt tâm thần duy lý nào cả. Trong dhyana thứ hai, toàn thể tri thức ở vào một cấp bậc thật cao, giúp chúng ta trở nên linh hoạt (bright, brisk / vif / bén nhạy , sinh động) hơn nhiều so với những lúc bình thường, nhất là sáng suốt, tinh khiết và rạng ngời hơn. Các luồng năng lực tâm lý và vật lý h theo đó cũng trở nên cô đọng và hợp nhất hơn, nhờ đó các cảm giác dễ chịu (pleasant feeling) trên cả hai phương diện vật lý (thân thể) và tâm thần sẽ bền vững hơn. .
Bài 38: Dhyana paramita hay sự hoàn hảo của thiền định
17/04/2021
12:19
Người ta thường dịch chữ dhyana [sang các tiếng Tây phương] là meditation (tiếng Việt là "thiền" hay thiền-na, tiếng Hán là Chan, tiếng Nhật là Zen, v.v.) cách dịch này khá phù hợp với mục đích của nó là một sự luyện tập, thế nhưng đối với từ này cũng như rất nhiều các từ khác [trong giáo lý Phật giáo] thì không thể tìm được các từ tương đương trong các ngôn ngữ Tây phương. Trên căn bản, dhyana gồm có hai thứ (hai khía cạnh): trước hết dhyana là các thể dạng tri thức vượt xa hơn và cao hơn các thể dạng tâm thức bình thường, sau đó cũng có thể hiểu dhyana là một phương pháp luyện tập thiền định nhằm mang lại sự cảm nhận về các thể dạng tri thức ở các cấp bậc cao siêu. Tôi sẽ tập trung việc giải thích vào ba trong số các cấp bậc này: trước hết là bốn dhyana thuộc thế giới hình tướng, tiếp theo là bốn dhyana trong thế giới vô hình tướng, và sau hết là ba cửa ngõ của sự giải thoát. Gộp chung cả ba thứ ấy với nhau sẽ giúp chúng ta có một ý niệm nào đó về ý nghĩa của dhyana là gì, dầu sao
Bài 37: Trước ngưỡng cửa Giác ngộ
17/04/2021
12:14
Sau khi nêu lên sự kết hợp giữa các phẩm tính dana (lòng hào hiệp) và sila (đạo đức) (chương IV), cũng như giữa kshanti (sức chịu đựng) và virya (nghị lực) (chương V) trong cuộc sống, sự nghiệp và cả trong các cảm nhận tâm linh của người bồ-tát, chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu thêm một cặp tương phản khác tinh tế hơn nhiều là dhyana hay thiền (meditation) và prajna hay trí tuệ (wisdom). Khi hai phẩm tính này được nâng lên cấp bậc hoàn hảo (paramita) thì sẽ đưa chúng ta trực diện với ngưỡng cửa của sự Giác ngộ và sự hoàn thành của thể dạng Phật tính (Bodhicitta) (dhyana là tiếng Phạn, tiếng Pali là jhana, tiếng Hán là "thiền" / 禅, còn gọi là "định" "thiền định" hay "thiền na", là thể dạng tập trung và lắng sâu của tâm thức, thường hiện lên trong những lúc hành thiền).
Bài 36: Phật giáo Zen và Phật giáo Shin
15/04/2021
08:54
Zen và Shin là hai học phái Phật giáo Nhật-bản bắt nguồn từ hai học phái Phật giáo Trung quốc là Thiền học (Chan / Tchan, Thiền / 禪) và Tịnh độ tông (淨土宗). Tuy bắt nguồn từ Phật giáo Trung quốc thế nhưng sau khi được đưa vào Nhật bản thì cả hai học phái này đã chịu ảnh hưởng khá sâu đậm bởi văn hóa, tánh khí, phong cách của dân tộc Nhật, và đã phát triển rộng rãi tại nơi này và vẫn tiếp tục còn tồn tại đến nay. Tuy nhiên dường như học phái Zen được nhiều người biết đến hơn, và như vậy thì học phái Shin là gì?
Bài 35: Sự tinh tế trong các xúc cảm mộc mạc
31/03/2021
08:47
Chúng ta có thể biến các xúc cảm mộc mạc và thô thiển bên trong chính mình trở thành tinh tế hơn bằng cách phát động lòng tin tưởng và sự sùng kính (devotion), chẳng hạn như các nghi lễ gọi chung là "Puja gồm bảy thành phần" (The Seven-fold Puja, sẽ được giải thích trong phần ghi chú dưới đây), hoặc nhờ vào các sinh hoạt nghệ thuật (thi phú, âm nhạc, hội họa, ảnh tượng, kiến trúc, v.v. cũng có thể tạo cho mình nhiều xúc cảm và rung động sâu sắc và tinh tế hơn). Một số người có thể cho rằng xu hướng tu tập của Phật giáo chẳng có gì liên hệ đến nghệ thuật cả. Hơn nữa họ cũng có thể nghĩ rằng cả hai thứ ấy (Phật giáo và nghệ thuật) dường như không thể nào đi đôi với nhau được (Phật giáo là sự giải thoát, nghệ thuật là sản phẩm của tâm thức, phản ảnh một sự bám víu). Thế nhưng trên thực tế nghệ thuật là một phương tiện có thể tập trung và tinh tế hóa nghị lực của xúc cảm góp phần vào sự thăng tiến trong việc tu tập, giúp mình hoàn tất các paramita (các phẩm tính hoàn hảo) mà ng
Bài 34: Virya hay nghị lực hướng vào điều thiện
31/03/2021
07:58
Nếu muốn phẩm tính kshanti biểu trưng đầy đủ được ý nghĩa của nó (xin nhắc lại kshanti có nghĩa là sự kiên nhẫn hay nhẫn nhục, là một trong sáu phẩm tính hoàn hảo / paramita / ba-la-mật. Kinh sách Hán ngữ gọi phẩm tính kshanti là "nhẫn", thế nhưng thật ra phẩm tính này gồm có ba khía cạnh hay ý nghĩa khác nhau: sức chịu đựng, lòng khoan dung và khả năng thụ cảm, cả ba đặc tính này biểu trưng cho "nữ tính" trong việc tu tập), thì phải nêu lên thêm một phẩm tính khác là virya, là phẩm tính thứ tư trong sáu phẩm tính paramita (virya có nghĩa là nghị lực hay sức cố gắng / energy, nếu kshanti biểu trưng cho nữ tính thì virya biểu trưng cho nam tính. Kinh sách Hán ngữ gọi phẩm tính virya là "tinh tiến" hay "tinh tấn" (精進), tinh có nghĩa là tinh lọc, tinh khiết, tấn hay tiến có nghĩa là tiến tới, cách dịch này dường như không được sát nghĩa lắm).
Quay lại