I) Thân Thế:Thượng tọa Thích Chơn Kiến (1948 - 2006), thế danh Ngô Đình Thung, pháp danh Trừng Lộc, pháp tự: Chơn Kiến, pháp hiệu Ấn Minh (Hoằng Nghiêm). Sinh ngày 20 tháng 6 năm 1948 tại làng Đại Điền Đông, xã Diên Điền, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Ngài là Uỷ viên tăng sự tỉnh Khánh Hòa, trụ trì chùa Thiên Phú tỉnh Khánh Hòa và cũng là người Khai sơn Tu viện Phước Sơn, tỉnh Khánh Hòa.Thân phụ, ông Ngô Ký, pháp danh Trừng Phong, thân mẫu, bà Huỳnh Thị Khằng, pháp danh Trừng Tằng, song thân của Ngài đều đã mãn phần. Ngài là người con thứ mười trong gia đình có 11 người con, 8 gái và 3 trai. Em trai út của Ngài cũng xuất gia tu Phật, đó là TT Nguyên Phước, hiện trú trì Chùa Phước Long, xã Diên Toàn, huyện Diên Khánh và hai người cháu gọi Thượng Tọa bằng cậu ruột là ĐĐ Thích Tịnh Hạnh, hiện đang tu học tại miền Bắc, sư cô Thích nữ Nguyên Nhựt, hiện đang tu học tại miền nam.
Thượng toạ Thích Chơn Kiến thọ Sa Di năm 1961 tại giới đàn Phương Trượng ở Chùa Hoa Quang, Xã Vĩnh Hiệp, TP Nha Trang; đến năm 1964, Ngài thọ lại Sa Di tại Giới Đàn chính thức ở Phật Học Viện Trung Phần Hải Đức, Nha Trang, do HT Thích Trí Thủ làm Hòa Thượng Đàn Đầu, HT. Thích Trí Nghiêm làm Yết Ma A Xà Lê, HT. Thích Thiện Siêu làm Giáo Thọ A Xà Lê.
Năm 1969, Ngài thọ giới Tỳ kheo và Bồ Tát tại giới đàn Phương Trượng ở chùa Hoa Nghiêm, Sài Gòn; đến năm 1973, Ngài đăng đàn thọ giới Cụ túc tại Đại Giới đàn Phước Huệ, tổ chức ở Phật học viện Trung phần Hải Đức- Nha Trang do Đại lão Hòa thượng Thích Phúc Hộ làm Hoà thượng Đường đầu, HT. Thích Giác Tánh làm Yết Ma A Xà Lê, HT. Thích Trí Nghiêm và HT. Thích Huệ Hưng làm Giáo Thọ A Xà Lê; Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Chánh Chủ đàn.
II) Thời Gian Xuất Gia Học Đạo:
Được sinh ra trong một gia đình nhân hậu, đời đời kính tin Tam Bảo và sẳn túc duyên từ nhiều đời, nên năm lên 10 tuổi, Thượng Tọa được song thân cho phép thế phát xuất gia học đạo với cố Hòa Thượng thượng Minh hạ Quang, trú trì Chùa Vạn Đức, tại làng Võ Dõng, Xã Vĩnh Trung, TP Nha Trang. Kể từ đó, hôm sớm kệ kinh siêng năng tu học, Thượng Tọa cùng với các huynh đệ gần gũi hầu cận bên Thầy Bổn Sư và thân cận học hỏi chư vị Tôn đức trong tỉnh Khánh Hòa, nên chủng trí vô sư nhiều đời huân tập nhân đây mà tăng trưởng.
Năm 1961, Ngài thọ Sa Di tại giới Đàn chùa Hoa Quang, thôn Vĩnh Điềm Trung, xã Vĩnh Hiệp, TP. Nha Trang 19-6 năm Tân Sửu, do HT. Thích Hưng Từ Đàn Đầu. Đến ngày 19-6- Mậu Thân (14-7-1968), Thượng toạ đã xin thọ lại Sa Di tại Đại giới Đàn chùa Hải Đức, Nha Trang. Do HT. Thích Tịnh Khiết làm Đàn Đầu.
Năm 1969, với hạnh nguyện sâu dầy, oai nghi đĩnh đạc, đáng làm pháp khí Đại thừa, Thượng Tọa được Hòa Thượng Bổn Sư cho thọ giới Tỳ kheo và Bồ Tát tại Giới Đàn chùa Hoa Nghiêm, Sài Gòn, thuộc Giáo Hội Hoa Tông, do Hòa Thượng Thọ Giả Thích Thánh Nhất làm Đàn Đầu.
Năm 1973, Thượng tọa thọ lại Tỳ kheo giới ngày 14-10-1973 tại Đại giới Đàn Hải Đức Nha Trang, do Hòa Thượng Thích Phúc Hộ Đàn Đầu.
Ngày 15/7 Tân Dậu (1981) Ngài đã cầu pháp với Hòa Thượng Thích Hưng Từ tại chùa Pháp Hội Bình Tuy, tỉnh Ninh Thuận và được Hòa Thượng ban cho Pháp hiệu Ấn Minh với bài kệ đắc pháp sau:
Đình Trung Ngô Thế Tánh,Trừng Lộc Pháp danh cao.Chơn Kiến bình Tâm địaẤn Minh tức đạo giao.
Thượng tọa đã tốt nghiệp tú tài vào năm 1970 tại trường Võ Tánh, Nha Trang, sau đó theo tu học và an cư nhiều nơi như Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang; chùa Minh Sơn Tuy Hòa, Chi Hội Phật giáo Diên Khánh, chùa Sắc Tứ Kim Sơn Nha Trang, đặc biệt, Thượng Tọa từng thọ giáo khóa Du Già Chẩn Tế đàn ngoại với Cố Hòa Thượng Thích Chánh Kỷ tại Chùa Thái Bình, huyện Diên Khánh vào đầu những năm 80.
III) Thời Kỳ Hành Đạo:
Năm 1972, Thượng Tọa được Ban Hộ Tự Chùa Thiên Phú cung thỉnh về trụ trì ngôi tự viên này. Chùa Thiên Phú vốn là một ngôi Chùa “cải gia vi tự”, khởi đầu vào năm 1945 (Ất Dậu), do đạo hữu Nguyễn Bạn cùng với vợ là bà Nguyễn thị Đố và một ít người trong gia tộc đã xây dựng trên khu đất từ đường rộng 2000m2 , đây là một ngôi nhà để thờ Phật và tổ tiên ông bà. Một thời gian sau, nhân nằm mộng thấy Bồ Tát Quan Âm mà ông Nguyễn Bạn đã xin ơn trên cho cải gia vi tự và đặt tên là chùa Thiên Phú. Ngôi chánh điện và hậu tổ lúc bấy giờ chỉ với diện tích khiêm tốn là 50m2 . Về sau ông Nguyễn Bạn có xin chính quyền để mở rộng thêm ngôi chánh điện, nhưng không được chấp thuận, vì trong dòng họ của ông có nhiều người tham gia phong trào kháng chiến chống Pháp. Đến năm 1966, cơ may tái tạo ngôi chùa không còn nữa, vì đạo hữu Nguyễn Bạn đã qua đời. Năm 1969, Ban Hộ Tự thỉnh thầy Huệ Minh về trụ trì. Thời điểm này chiến tranh vẫn còn sôi động, nên TT Huệ Minh chỉ duy trì việc hương khói và tu niệm. Đến năm 1972 Thầy Huệ Minh viên tịch. Không thể làm ngơ trước sự hoang vắng và ngày càng suy tàn của chốn Già Lam, Ban Hộ Tự và Phật tử địa phương cung thỉnh TT. Thích Chơn Kiến đang hành đạo tại chùa Vạn Đức thôn Võ Dõng về nối nghiệp trụ trì.
Năm 1974, được sự nhiệt thành ủng hộ của Phật tử địa phương, với tư cách là tân trụ trì, Thượng Tọa đã lên kế hoạch xây dựng lại ngôi Chánh điện nay là Hậu Tổ và lần lượt tu bổ thêm một vài tiện nghi cần thiết cho ngôi chùa thêm phần khang trang. Kết quả Chùa Thiên Phú đã thật sự trở thành nơi chiêm bái và tu học của đồng bào Phật tử gần xa.
Năm 1991, nhìn thấy nhu cầu tu học Phật của hàng đệ tử ngày càng đông, trong khi phạm vi nhỏ hẹp của Chùa Thiên Phú lúc bấy giờ không thể đáp ứng được mọi nhu cầu cần thiết ấy, nên Thượng Tọa đã xin phép Giáo hội và các cấp chính quyền để chính thức kiến tạo ngôi Đại Hùng Bảo Điện với diện tích mở rộng là 400m2 . Thượng Tọa còn xây dựng thêm một số công trình phụ như nhà Tăng, giảng đường vv… Chùa được khởi công xây dựng vào ngày 24 tháng giêng năm Tân Mùi (1991) và hoàn thành vào ngày 24 tháng chạp năm Nhâm Thân (1993) do kỹ sư Bùi Văn Minh thiết kế và chính Thượng Tọa trụ trì đích thân chỉ đạo công trình. Ngôi Chùa làm theo mô hình kiến trúc cổ truyền kiểu chữ “I” (Công) hai lớp mái chồng diêm, mang dáng dấp kiến trúc cổ kính Á Đông, với lưỡng long triều nguyệt, tạo nên một dáng vẻ uy nghiêm giữa rặng dừa của làng Phú Vinh.
Chánh điện thoáng rộng, điện Phật được bài trí trang nghiêm. Nổi bật ở trung tâm là tượng Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni ngồi thiền định trên tòa sen cao 2m50; hai bên trái và phải là phù điêu Bồ Tát Văn Thù, biểu trưng cho trí tuệ và Bồ Tát Phổ Hiền, biểu trưng cho đạo hạnh. Phía trước là hai tượng Hộ Pháp và Tiêu Diện. Sau điện Phật là nhà thờ tổ sư Đạt Ma và bàn thờ Linh. Chùa còn có nhiều câu đối, hoành phi, phù điêu được chạm trổ một cách rất tinh xảo bởi bàn tay của nghệ nhân Khánh Hòa Ngô Đình Lục, vốn là người anh ruột thứ bảy của Thượng Tọa.
Năm 1993, Thượng Tọa thành lập Đạo Tràng Pháp Hoa và biên soạn quyển Nghi Thức Tụng Niệm, để hướng dẫn Phật tử gần xa tụng niệm và thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Đạo Tràng đến nay đã có trên 500 thành viên tu học.
Năm 1994, Thượng Tọa cho thành lập Tuệ Tỉnh Đường ngay trong khuôn viên của Chùa Thiên Phú, để khám bệnh và bốc thuốc miễn phí cho người dân nghèo trong và ngoài Xã Vĩnh Thạnh, TP Nha Trang.
Năm 1995, Thượng Tọa cho thành lập Gia Đình Phật Tử Thiên Phú, để hướng dẩn các em, thanh thiếu niên tại địa phương, nhằm góp phần giữ gìn giềng mối đạo đức cho xã hội.
Năm 1998 (Đinh Sửu), nhân dịp lễ vía Đức Phật Thành Đạo, Thượng Tọa đã cho khởi công đúc quả Đại Hồng Chung và lễ rót đồng cử hành trong khuôn viên chùa vào ngày 16 tháng 3 năm Mậu Dần (1998), quả chuông cao 2m80; nặng 2500kg với đường kính 1m45 do nghệ nhân xưởng đúc Đại Hạnh Đạo Hữu Nguyên Lượng Nguyễn Thanh Thảo thực hiện, dưới sự chứng minh của: Hòa thượng Thích Trí Nghiêm, Hòa thượng Thích Đổng Minh, Hòa thượng Thích Chí Tín, Hòa thượng Thích Thiện Bình, Hòa thượng Thích Trí Tâm, Hòa thượng Thích Minh Quang,Thượng tọa Thích Tịnh Nghiêm.
Năm 2000, Thượng Tọa đã tạo mãi một khu đất rẫy tại thôn Phước Thượng, xã Phước Đồng, TP. Nha Trang. và đã thành lập ngôi Thiên Phú Phước Sơn tu viện tại nơi này để hướng dẫn đồng bào Phật tử trong khu vực quy hướng Tam Bảo.
Từ năm 2001-2006 Thượng tọa đảm nhiệm chức vụ ủy Viên tăng Sự BTS Tỉnh Khánh hòa trong nhiệm kỳ IV.
Năm 2003, Thượng Tọa cùng chư Tôn Hòa Thượng Thích Phước Thành, HT Thích Thiện Nhơn đến Úc Đại Lợi để tham dự chứng minh Đại Lễ Khánh Thành Tu Viện Quảng Đức tại thành phố Melbourne từ ngày 10 đến 12 tháng 10 năm 2003, sau đó, Thượng Tọa đã cùng phái đoàn sang Ấn Độ để chiêm bái các thánh tích Phật giáo trước khi trở về VN.
Năm 2005, Thượng Tọa xây dựng hoàn tất Đoàn Quán Gia Đình Phật tử Thiên Phú để giúp cho các em có nơi sinh hoạt hằng tuần và xây dựng hoàn tất Vãng Sanh Đường để thờ linh cốt quá vãng ký tự tại bổn tự.
Năm 2006, Thượng Tọa khởi công và xây dựng hoàn thành Cổng Tam Quan Chùa Thiên Phú và góp phần rất lớn để hình thành con đường bê tông từ cổng Tam Quan dẫn vào khu xóm xung quanh Chùa. Đây được xem là công trình cuối cùng của Thượng Tọa để lại cho đời.
Qua phúc đức trang nghiêm, túc duyên thù thắng, năng lực phi thường, Thượng Tọa là Bổn Sư, là Y Chỉ Sư của nhiều Tăng Ni và Phật tử theo tu học. Qua sự giáo dưỡng của Thượng Tọa, đã có nhiều đệ tử xuất gia đã theo học các trường Cao Cấp Phật Học, Cao Đẳng Chuyên Khoa, Khóa Giảng Sư, Trung Cấp Phật Học.
Bằng giới đức trang nghiêm thanh tịnh, mô phạm chốn tòng lâm biểu tượng nơi quy hướng cho Tăng Ni và Phật tử, Thượng Tọa đã được cung thỉnh làm Tôn Chứng Sư cho các Giới Đàn Trí Thủ I : chùa Long Sơn Nha Trang:tháng 9 Quý Dậu (1993)
Đại giới Đàn Trí Thủ II :Đinh Sửu (1997)Tiểu giới Đàn Trí Thủ, Kỷ Mão (1999)Đại giới Đàn Trí Thủ, Tân Tỵ (2001)
IV) Thuận thế vô thường:
Cuối năm 2002, Thượng Tọa đã lâm trọng bệnh, tuy được y bác sĩ bệnh viện Bình Dân TP. HCM tận tình chữa trị, nhưng sức khỏe của Ngài vẫn dần dần giảm sút. Trong lúc thân đang mang trọng bệnh, mà Thượng Tọa vẫn nỗ lực kiên trì cố gắng xây dựng cho hoàn thành các công trình kiến trúc còn lại của Bổn Tự như Cổng Tam Quan và con đường Làng. Thế rồi ngày qua tháng lại, sức khỏe Thượng Tọa kém dần theo cơn bệnh, Thượng Tọa vẫn tỉnh giác chánh niệm an nhiên tự tại với các Phật sự, sinh hoạt thường nhật trong ý niệm “sinh tử nhàn nhi dĩ”. Rồi đến đầu tháng 8 năm 2006, cơn bệnh nan y tái phát, Thượng Tọa đã được các đệ tử đưa vào Sàigòn để điều trị, nhưng bệnh đã ở giai đoạn cuối, không thể chữa trị được nữa, như biết trước huyễn thân sắp rời xa cõi trần thế, Thượng Tọa dạy các đệ tử đưa ngài trở về tĩnh dưỡng tại Chùa Thiên Phú, nơi mà ngài sống và tu học trên 30 năm. Trong khi các hàng đệ tử lo âu sợ hãi cho cơn vô thường sẽ đến cướp đi người Thầy khả kính, ngược lại Thượng Tọa đã tự tại dặn dò các việc cần thiết qua thư di chúc, cũng như khuyến tấn các hàng đệ tử xuất gia, tại gia nên tinh tấn tu học để ngỏ hầu mang lại niềm phúc lạc cho mình và cho người. Trước ngưỡng cửa sanh tử ngài nhẹ nhàng nói:
“Nghiệp đã qua rồi lòng nhẹ nhõmNgàn xưa mây bạc vẫn thong dong.”
Chùa xưa còn đó, pháp lữ còn đây mà Ngài đã thuận thế vô thường, an tường xả báo thân vào lúc 6 giờ tối ngày Chủ nhật, 3-9-2006, nhằm ngày 11 tháng 7 nhuận năm Bính Tuất tại Chùa Thiên Phú, Thôn Phú Vinh, Xã Vĩnh Thạnh, Thành Phố Nha Trang, Việt Nam. Nhập đạo 49 năm, trãi qua 37 mùa an cư kiết hạ. Trụ thế 59 năm.
Thế là Thượng Tọa đã ra đi vĩnh viễn, để lại phía sau hàng đệ tử trẻ dại, bơ vơ. Tiếc thay, hạnh nguyện chưa tròn, đường phụng sự đạo pháp còn quá dài và chúng sanh còn nhiều người mong đợi. Cõi trần thế từ đây đã khuất một vì sao, miền Lạc cảnh lại thêm một trang Thượng Sĩ. Cố nhiên công đức cống hiến phụng sự đạo pháp, Dân Tộc và lợi lạc chúng sanh của Thượng Tọa sẽ còn sống mãi trong tâm tư những người con Phật.
Những tưởng, duyên hoá độ còn lâu hơn nữa,
Nào ngờ đâu, sớm cỡi hạc quy Tây.Trong vô thường, vẫn điềm nhiên tự tại,Sống chết dường gió thoảng mây bay.Nguyện giác linh sớm hồi nhập Ta-bàCùng pháp lữ xiễn dương chánh pháp.
Nam-mô Tự Lâm Tế Chánh Tông, Tứ thập nhị thế, Khai SơnThiên Phú Tự, trụ trì, huý thượng Trừng hạ Lộc, tự Chơn Kiến, hiệu Ấn Minh Thượng Tọa Giác Linh, thuỳ từ chứng giám.
Melbourne, Úc Châu, 3-9-2006Đệ tử Tỳ Kheo Tịnh Tuệ kính soạn(pháp danh Nguyên Tạng)